Arabica là giống cà phê gì ?

Coffea arabica còn được gọi là cà phê Ả Rập là một loài thực vật có hoa trong họ Cà phê và thiên thảo (Rubiaceae). Nó được cho là loài cà phê đầu tiên được trồng và hiện là giống cây trồng chiếm ưu thế, chiếm khoảng 60% sản lượng toàn cầu. Cà phê được sản xuất từ hạt Robusta ( C. canephora ) ít acid hơn, đắng hơn và chứa nhiều caffein hơn chiếm phần lớn sản lượng cà phê còn lại. Cà phê Arabica có nguồn gốc và được trồng đầu tiên ở Yemen , và được ghi nhận vào thế kỷ 12. Coffea arabica được gọi là ‏‎بُنّ ‎ ( būnn ) trong tiếng Ả Rập , mượn từ tiếng Amharic “Buna”.
Hạt cà phê Arabica có hình dáng dài (elip), rãnh ở giữa hạt thường có hình lượn sóng

Cà phê arabica lần đầu tiên được mô tả một cách khoa học bởi Antoine de Jussieu, người đã đặt tên cho nó là Jasminum arabicam sau khi nghiên cứu một mẫu vật từ Vườn bách thảo Amsterdam . Linnaeus đặt nó trong chi Coffea của chính nó vào năm 1737.

Coffea arabica là loài đa bội duy nhất của chi Coffea , vì nó mang 4 bản sao của 11 nhiễm sắc thể (tổng cộng 44) thay vì 2 bản sao của các loài lưỡng bội. Cụ thể, bản thân Coffea arabica là kết quả của sự lai tạo giữa Coffea canephora và Coffea eugenioides lưỡng bội, do đó làm cho nó trở thành thể dị bội, với hai bản sao của hai bộ gen khác nhau. Sự kiện lai tạo này ở nguồn gốc của Coffea arabica được ước tính từ 1,08 triệu đến 543 nghìn năm trước và có liên quan đến việc thay đổi điều kiện môi trường ở Đông Phi.

Ghi chép đầu tiên về cà phê được làm từ hạt cà phê rang (hạt thực vật) đến từ các học giả Ả Rập, họ đã viết rằng nó rất hữu ích trong việc kéo dài thời gian làm việc. Sự đổi mới của người Ả Rập ở Yemen trong việc sản xuất đồ uống từ hạt rang, ban đầu được lan truyền giữa người Ai Cập và người Thổ Nhĩ Kỳ, và sau đó lan rộng ra khắp thế giới. Các học giả khác tin rằng cây cà phê được du nhập từ Yemen, dựa trên truyền thống của người Yemen rằng cả Cà phê và Khát đều được trồng tại ‘Udein’ (‘hai cành cây’) ở Yemen vào thời kỳ tiền Hồi giáo. Sản xuất cà phê Arabica ở Indonesia bắt đầu vào năm 1699 thông qua sự lan rộng thương mại của Yemen chẳng hạn như Sumatra và Java, được biết đến với cơ thể nặng và độ acid thấp. Điều này khiến chúng trở nên lý tưởng để pha trộn với các loại cà phê có độ acid cao hơn từ Trung Mỹ và Đông Phi.

Arabica được người Pháp mang đến trồng ở Việt Nam vào những năm 30 của thế kỷ trước. Tỉnh Lâm đồng với các địa phương như Di Linh, Bảo Lộc, Đơn Dương, vùng ngoại ô Đà Lạt, đặc biệt là vùng Cầu Đất, được coi là thiên đường cà phê Arabica của Việt Nam với những “chỉ số vàng”, cao 1.500 m, khí hậu ôn đới mát quanh năm, nhiệt độ cực đại trong năm không vượt quá 330 độ C, nhiệt độ cực tiểu 50 độ C. Đây là vùng sản xuất cà phê Arabica chất lượng cao nhất cả nước. Địa hình càng cao, khí hâu càng lạnh hơn, càng cho ra những hạt cà phê Arabica chất lượng tuyệt hảo.

Các dòng cà phê Arabica gồm có: Bourbon, Typica, Mocha (moka), Catimor. Trong đó ba dòng Bourbon, Typica, Mocha là những loại cà phê lâu đời nhất trên thế giới, nhưng ba loại cà phê này khó trồng, dễ bị sâu bệnh. Ngược lại giống cà phê Catimor – loại được phát triển tại Bồ Đào Nha năm 1959, là sự lai tạo của hai giống Caturra và Timor (Timor lại là sự lai tạo của coffea canephora dòng robusta với arabica). Loại này dễ trồng hơn, năng suất cao và có thể kháng được sâu bệnh.

Arabica Cầu Đất có vị chua thanh xen lẫn với vị đắng nhẹ, nước pha màu nước nâu nhạt, trong trẻo của hổ phách. Mùi hương của Arabica rất thanh tao, quý phái, Arabica có mùi của si-rô, mùi của hoa trái, hòa quyện với mùi của mật ong, và cà mùi bánh mì nướng, mùi của cánh đồng rơm buổi trưa hè… Arabica chinh phục những con người sành điệu ẩm thực nhất trên toàn cầu. 

Cà phê Arabica là nguyên liệu chính của các hãng cà phê, các thương hiệu cà phê nổi tiếng nhất trên thế giới.